Sóc Trăng nằm ở hạ nguồn sông Hậu, nơi có sự giao thoa văn hóa đặc biệt giữa dân tộc Kinh, Hoa và Khmer. Các di sản, dấu tích sử của vùng đất này được gọi tên qua các câu ca dao.
“Ai về thẳng tới Năm Căn
Ghé ăn bánh hỏi Sóc Trăng, Bài Xàu
Mắm nêm, chuối chát, khế, rau
Tôm càng Đại Ngải cạp vào khó quên”
Đầu thế kỷ 18, Bài Xàu là tên gọi dân gian của huyện Mỹ Xuyên ngày nay, nổi tiếng khắp Nam Kỳ Lục tỉnh với thương cảng lớn Bài Xàu chuyên mua bán gạo của người Hoa. Mỹ Xuyên còn được nhiều là “Con đường đi qua cái đẹp” xuất phát từ lời chiết từ Hán - Việt: “Mỹ” là đẹp, “Xuyên” là đi qua, phần nào phản ánh vùng đất này giáu tiềm năng về hoạt động thương mại, kỹ nghệ và đặc biệt thu hút du lịch bởi có nhiều ngôi chùa, miếu, hội quán người Hoa. Trong số này, không thể không nhắc tới chùa Bà Thiên Hậu Triều Châu (nguồn gốc phương hoa goi tắt là chùa Bà) có lịch sử hơn 100 năm, tọa lạc tại đường Lý Thuong Kiệt, thị trấn Mỹ Xuyên, cách thành phố Sóc Trăng khoảng 5km.
SỰ TÍCH THIÊN HẬU THÁNH MẪU
Xưa, khi nhưng người Hoa đầu tiên đến nước Việt lập nghiệp, tạo dựng cuộc sống tối mỗi chính họ cùng góp phần làm phong phú thêm các giá trị văn hóa, đời sống thần thánh cho địa phương. Không phải ai cũng biết Bà Thiên Hậu ngày nay được nhiều người Việt và người Việt gốc Hoa sùng kính lại là một nhân vật lịch sử có thật với những câu chuyện kỳ bí về nhiều phép lạ màu nhiệm, giúp đỡ dân chúng.
Sử ghi bà họ Lâm, tên Mặc, người làng My Châu, huyện Bồ Điền, Phủ Hưng Hoá, tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc. Bà sinh ngày 23/3 năm Canh Thân (năm 960 Dương lịch). Bà có cha là ông Lâm Nguyện, mẹ là bà Vương Thị. Khi Bà sinh ra đến đầy tháng, không ai nghe tiếng Bà khóc, chính vì vậy mà Bà còn có tên là "Mặc Nương". Vốn thông minh sáng dạ, 8 tuổi Bà theo thầy học chữ. Không chỉ đọc sách làu làu mà Bà còn thông hiểu nội dung. Trưởng thành, Bà quyết chí ở vậy chứ không lập gia đình vì muốn toàn tâm toàn ý làm việc thiện và cứu giúp người đời. Sinh sống ở vùng biển nên Bà rất thông hiểu khí tượng thuỷ văn, luồng nước.
Năm 16 tuổi, Bà chèo ghe ra biển để tìm cha, anh bị nạn sau cơn cuồng phong. Cuối cùng, Bà cứu sống được cha trở về, rồi quay ra vớt xác anh, đem về chôn cất, người trong làng ai cũng khen Bà dũng cảm. Ngày mùng 9/9 năm Đinh Hợi (1987 Dương lịch) vào lúc hoàng hôn, Bà lên núi Mỹ Sơn, xa xa có tiếng nhạc Tiên nghinh tiếp, Bà thoát phàm thai, nhập Thánh thai, Bà đã đắc đạo. Tương truyền, những người dân biển và cư dân sống ven biển tưởng nhớ, thường thấy Bà mặc áo bào đỏ bay lượn trên biển và cứu người gặp nạn, nên họa hình Bà để thờ cúng, cầu xin Bà phù hộ được thuận lợi trên hải trình.
SẮC ĐỎ CHÙA ĐẠO Ở CHÙA BÀ THIÊN HẬU
Nhìn từ xa, hình tượng cặp rồng uốn lượn tranh một quả bầu tiên trên mái chùa Bà gây ấn tượng đặc biệt cùng hai chữ “Phước” (bên trái) và “Tăng” (bên phải), mang hàm ý nghĩa là tăng thêm phước.
Bước vào của chính, mãn nhãn là giàn khoanh nhang và lu hương khổng lồ, điểm xuyết chậu mai vàng, mai tứ quý ngập tràn sắc xuân. Những liễn tên màu đỏ của các gia đình cầu phúc được lồng cẩn thận vào giữa khoanh nhang, trên liễn là các chữ Hán, mang ý nghĩa chúc phúc, bình an và sức khỏe. Sau thời khắc giao thừa và trong những ngày dịp năm mới, có rất nhiều người đến chùa dâng hương, viết tên lên liễn cầu được tân niên may mắn. Ngoài ra, du khách còn xin quẻ xăm vào dịp đầu xuân, vời mong muốn có một năm mới khởi sắc và thành công. Du khách gần xa còn có thể dự lễ hội về Bà Thiên Hậu được tổ chức vào ngày 22, ngày 23/3 âm lịch, trang trọng với nhiều công đoạn như tắm tượng, thay xiêm y Thiên Hậu, rước kiệu Bà, hay múa lân và múa rồng.